Tìm kiếm:
TRANG NHÀ
Giới thiệu VNEDU.ORG
Điều khoản và bản quyền
Liên lạc VNEDU
TRẮC NGHIỆM TRỰC TUYẾN
---Công Cụ:---
Soạn Biểu thức
Bảng màu HTML
Ký hiệu đặc biệt 01
Ký hiệu đặc biệt 02
Ký hiệu đặc biệt 03
Ký hiệu đặc biệt 04
Ký hiệu đặc biệt 05
Ký hiệu đặc biệt 06
Ký hiệu đặc biệt 07
Ký hiệu đặc biệt [Toán]
290 bài trong 29 trang (10 bài/trang) và bạn đang ở trang 7.
Demo

Vai trò của di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh là một đề tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau được biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Ta có thể hiểu một cách khác là hệ số di truyền là phần trăm khả năng di truyền cho đời sau của một gene. Nghiên cứu ở những cặp sinh đôi và những gia đình có nhận con nuôi là những nơi thường được nghiên cứu nhiều nhất. Cho đến gần

Demo

Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo kích cỡ từng phần của bộ não bằng phương pháp MRI và đo các khả năng từ vựng và suy luận đã được thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên cứu cho thấy có một sự liên quan nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ não – những người có trí thông minh cao thường có vỏ não mỏng khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn lên.

Demo

Ban đầu IQ được tính là thương số giữa tuổi trí tuệ và tuổi thực tế nhân với 100, tuy nhiên cách tích này nhanh chóng bộc lộ những khuyết điểm nên được phát triển thành các cách tính phổ biến theo độ lệch chuẩn 15, 16, 24. Chỉ số IQ thường được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc, trong Xã hội, những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa IQ và sức khỏe, tuổi thọ (những người thông minh thường có nhiều kiến thức hơn trong vi̓

Demo

Chỉ số thông minh, hay IQ (viết tắt của intelligence quotient trong tiếng Anh), là một khái niệm được nhà khoa học người AnhFrancis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary Genius xuất bản vào cuối thế kỷ 19. Sau đó, nó được học trò của ông là J.Cattell và nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet phát triển bằng việc thảo ra những bài trắc nghiệm để kiểm tra năng lực trí tuệ của trẻ khi đi học. Binet nhận thấy rằng có mối liên hệ giữa khả năng học của một học sinh với kết quả bài trắc nghiệm của ông

Demo

Một số cuốn sách gây tranh cãi của tác giả Dr. Richard Lynn, Professor Emeritus về tâm lý học tại Đại học Ulster, Bắc Ireland, và Dr. Tatu Vanhanen, Professor Emeritus về khoa học chính trị tại Đại học Tampere, Tampere, Phần Lan IQ and the Wealth of Nations (2002) (IQ và sự thịnh vượng của quốc gia) và IQ and Global Inequality (2006) cho rằng sự giàu có của một quốc gia một phần lớn có thể giải thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nước đó. Luận điểm trên đã và đang được ủng hộ nhưng cũng có nhiều chê bai. Thông tin đó 

Demo

Một số nghiên cứu về IQ tiếp tục tìm ra những lợi ích của sự thông minh ở một mức độ cao. Khả năng làm việc là một ví dụ, tăng dần theo IQ (Coward và Sackett, 1990). Trong cuộc phân tích hàng trăm đứa trẻ, người ta thấy rằng IQ có một hiệu quả rất lớn lên thu nhập bình quân của gia đình (Murray, 1998).

Demo

Chỉ số thông minh, hay IQ (viết tắt của intelligence quotient trong tiếng Anh), là một khái niệm được nhà khoa học người Anh Francis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary Genius xuất bản vào cuối thế kỷ 19.

Demo

Một nghiên cứu của Richard Lynn năm 1999 trong đó ông phân tích số liệu từ một số bài test được xuất bản trước đó và phát hiện ra rằng chỉ số IQ trung bình của nam giới cao hơn của nữ giới khoảng 3-4 điểm IQ. Các phân tích quy mô lớn của Lynn thực hiện năm 2004 khảo sát sự khác biệt giới cũng chỉ ra nam giới có chỉ số IQ trung bình cao hơn nữ là 5.0 điểm IQ.Trong một nghiên cứu khác bởi Rushton phát hiện nam giới ở độ tuổi 17 - 18 tuổi có chỉ số IQ trung bình cao hơn 3.63 điểm so với nữ. M̕

Demo

Theo Jackson và Rushton, một cuộc khảo sát đầu thế kỷ 20 cho thấy giới không đóng vai trò về trí thông minh. Trước đó thì Cyril Burt và Lewis Terman cũng không tìm thấy sự khác biệt về trí thông minh giữa hai giới. Năm 1995, Hedges và Nowell chỉ ra những sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê về chỉ số IQ trung bình giữa nam và nữ sử dụng các số liệu trong các nghiên cứu phổ biến xuất bản thời đó.

Demo

Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo kích cỡ từng phần của bộ não bằng phương pháp MRI và đo các khả năng từ vựng và suy luận đã được thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên cứu cho thấy có một sự liên quan nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ não – những người có trí thông minh cao thường có vỏ não mỏng khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn lên.

      Đến trang:   Left    1    3    4    5    6    8    9    10    11   ...  29    Right  
Xem Nhiều nhất
Trắc Nghiệm IQ - 14
Trắc Nghiệm IQ - 02
Trắc Nghiệm IQ - 04
Trắc Nghiệm IQ - 01
Trắc Nghiệm IQ - 12
Trắc Nghiệm IQ - 08
Trắc Nghiệm IQ - 13
Trắc Nghiệm IQ - 10
Trắc Nghiệm IQ - 278
Trắc Nghiệm IQ - 09
Trắc Nghiệm IQ - 86
Trắc Nghiệm IQ - 05
Trắc nghiệm IQ - 84
Trắc Nghiệm IQ - 284
Trắc Nghiệm IQ - 07
Trắc Nghiệm IQ - 11
Trắc Nghiệm IQ - 85
Trắc Nghiệm IQ - 79
Trắc Nghiệm IQ - 221
Trắc Nghiệm IQ - 80
Đề Xuất
Trắc Nghiệm IQ - 166
Trắc Nghiệm IQ - 138
Trắc Nghiệm IQ - 228
Trắc Nghiệm IQ - 185
Trắc Nghiệm IQ - 34
Trắc Nghiệm IQ - 262
Trắc Nghiệm IQ - 120
Trắc Nghiệm IQ - 71
Trắc Nghiệm IQ - 261
Trắc Nghiệm IQ - 216
Trắc Nghiệm IQ - 260
Trắc Nghiệm IQ - 107
Trắc Nghiệm IQ - 183
Trắc Nghiệm IQ - 36
Trắc Nghiệm IQ - 236
Trắc Nghiệm IQ - 241
Trắc Nghiệm IQ - 242
Thống kê:
Phát triển hệ thống: TRƯƠNG HỮU ĐỨC - Phiên bản 3.0 - © Copyright 2013 - 2024 - VNEDU.ORG

free counters